Trong bối cảnh thực phẩm bẩn tràng lan, thì thực phẩm được sản xuất theo hướng hữu cơ đang được người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng do được trồng, thu hoạch và chế biến theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không có thành phần biến đổi gen, không có thuốc kháng sinh...Tuy nhiên, trước nhu cầu ngày càng cao của thị trường rau, thịt và hàng loạt các sản phẩm khác được gắn mác thực phẩm hữu cơ đang xuất hiện tràng lan trên thị trường, liệu có thật là sản phẩm hữu cơ hay không? đó là câu hỏi chưa có lời giải đáp rỏ ràng.
Có nhiều mặt hàng bày bán được quản cáo là sản phẩm hữu cơ không sử dụng chất bảo quản, không có thuốc bảo vệ thực vật, thậm chí trên sản phẩm còn gắn nhãn 100% sản phẩm hữu cơ. Thế nhưng, khi được hỏi nguồn gốc chứng nhận của sản phẩm từ đâu thì câu trả lời “tự sản xuất và tự dán nhãn sản phẩm hữu cơ”. Ngoài ra, có những miến thịt không tên tuổi, không nhãn mác cũng được các cửa hàng quản cáo là thịt heo hữu cơ. Như vậy, cũng có thể nói các thực phẩm đang được gắn mác thực phẩm hữu cơ chỉ để đánh vào tâm lý người tiêu dùng đang cần nguồn thực phẩm sạch và nhìn chung các sản phẩm được gắn mác hữu cơ này điều có giá bán cao hơn những sản phẩm thông thường gấp 3-4 lần, có thể thấy lợi nhuận cao là yếu tố hấp dẫn khiến nhiều người đua nhau tự phong sản phẩm của mình là sản phẩm hữu cơ bán ra thị trường để kiếm lời.
Trong khi đó, những người đang sản xuất theo hướng hữu cơ thực sự thì gặp khó khăn ở khâu đầu ra vì không được gắn nhãn hữu cơ, nguyên nhân vì ở Việt Nam chưa có cơ quan nào chứng nhận sản phẩm hữu cơ, còn tự đăng ký chứng nhận từ các tổ chức độc lập trên thế giới thì chi phí rất cao điều này có nghĩa nông dân khó có điều kiện để tự đăng ký chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn hữu cơ thế giới. Do vậy, các chuyên gia nông nghiệp cho rằng cần thiết phải có bộ tiêu chuẩn cho sản phẩm hữu cơ phù hợp với điều kiện Việt Nam, đây là chìa khóa giúp người tiêu dùng dễ nhận diện và tiếp cận với sản phẩm hữu cơ.
Hiện nay, ở Việt Nam có khoản 50 doanh nghiệp được các tổ chức quốc tế công nhận là sản phẩm hữu cơ và để có được công nhận này doanh nghiệp phải trải qua một quy trình hết sức tốn kém và không ít gian nan qua những thủ tục như xét về mặt kỹ thuật thì phải thử nghiệm những mẫu đất, nước, việc trồng cây nào theo quy trình gì và vật tư đầu vào ra sao theo tiêu chuẩn hữu cơ thế giới, ngoài ra doanh nghiệp còn phải đóng phí tương đương 40 triệu đồng/năm. Chính vì vậy mà việc tạo hành lang pháp lý để ra những chứng nhận sản phẩm hữu cơ theo tiêu chuẩn của Việt Nam tương đương với các bộ quy chuẩn trên thế giới là điều cần thiết vào lúc này./.
Bảo Tâm
|